Quảng Bình là quê hương, nơi lưu giữ nhiều kỷ niệm thời thơ ấu của Đại tướng, cũng là nơi đã nuôi dưỡng, hun đúc tinh thần, ý chí cách mạng của đồng chí Võ Nguyên Giáp. Chính tình yêu quê hương là động lực, là sức mạnh để đồng chí hăng hái tham gia hoạt động cách mạng, cùng đồng bào cả nước đứng lên chống lại ách áp bức của thực dân, đế quốc, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng sôi nổi, bước chân Đại tướng đã in dấu trên mọi chiến trường,gắn bó với nhiều miền quê của Tổ quốc, đảm nhận nhiều trọng trách lớn của Đảng, Nhà
nước và Quân đội nhưng trái tim Đại tướng bao giờ cũng tha thiết
với đồng bào, đồng chí và bà con cô bác ở quê nhà. Với quê hương, Đại tướng luôn
dành những tình cảm chân thành,sâu đậm và sự quan tâm đặc biệt. Lúc sinh thời
Đại tướng đã tâm sự “Quảng Bình là nhà tôi, khi nào rảnh việc nước thì tôi về
nhà”. Dù việc
nước với bao bộn bề nhưng Đại tướng vẫn giành thời gian để nhiều lần được về
thăm quê, đồng thời thường xuyên theo dõi và có hướng chỉ đạo từng bước trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh nhà.
Bước
chân của Đại tướng đến đâu là mặn nồng đến đó, với những lời dặn dò chân tình,
sâu sắc để lại trong lòng nhân dân, cán bộ, đảng viên chiến sĩ lực lượng vũ
trang và anh hùng lao động nhiều tình cảm sâu lắng. Trong tim Đại tướng luôn
chỉ có một mong muốn, đó là: Quê hương Quảng Bình một thời nổi danh “Hai giỏi”
sẽ mãi mãi vươn lên, tiến đến dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh.
Năm
1962, Đại tướng về thăm quê, đi thăm xã Cảnh Dương của huyện Quảng Trạch.
Đại tướng biểu dương những thành tích trong chiến đấu, sản xuất của
Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Quảng Trạch nói chung và xã Cảnh Dương
nói riêng. Đại tướng căn dặn, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trạch phải
nêu cao tinh thần đoàn kết, khắc phục khó khăn, góp phần cùng cả
nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới.
Nhớ lại
những ngày đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, trong đó có Quảng Bình,
tháng 5 năm 1965, Đại tướng đã điện thoại chỉ đạo, căn dặn quân và dân Quảng
Bình phải: phối hợp thật tốt; đánh thật tốt; tránh thật tốt; các lực lượng
chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lực lượng an ninh thì ở lại, còn các cơ quan, xí
nghiệp, nhân dân phải sơ tán tránh mọi tổn thất... nhờ đó mà quân và dân Quảng
Bình đã không bị bất ngờ, chủ động đánh thắng trận đầu, bắn cháy 04 máy bay của
đế quốc Mỹ, bắt sống 01 phi công Mỹ, các cơ quan, đơn vị và nhân dân Quảng Bình
nói chung, Đồng Hới nói riêng được an toàn, giảm thiểu những thiệt hại do không
kích của đế quốc Mỹ gây ra.
Trong
những năm tháng chiến tranh, mảnh đất Quảng Bình đã hứng chịu biết bao bom đạn
của kẻ thù, song người dân Quảng Bình đã cùng với cả nước viết nên những trang
sử vẻ vang của dân tộc. Cứ mỗi lần có chiến công, mỗi lần có đoàn đại biểu
Quảng Bình lập được chiến công xuất sắc được ra báo công với Chính phủ, với Bác
Hồ là Đại tướng đến động viên, khen ngợi và căn dặn Quảng Bình phải trở thành
một tỉnh gương mẫu, đi đầu trong cả nước.
Khi
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt nhất, vào ngày mồng
một Tết Đinh Mùi (4/02/1967), sau khi hợp tác xã Quang Phú được Nhà nước phong
tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lao động năm 1966, Đại tướng Võ Nguyên Giáp về
thăm xã Quang Phú (Đồng Hới). Nói chuyện với Đảng bộ và nhân dân Quang Phú, Đại
tướng biểu dương thành tích của hợp tác xã: “Vừa qua Quốc hội, Chính phủ tặng
cho hợp tác xã Quang Phú danh hiệu Anh hùng.Các đồng chí và bà con xã viên đã
sản xuất tốt nhưng phải sản xuất tốt hơn nữa; phòng không nhân dân, chiến đấu
chống Mỹ, vận tải và một số công tác tốt nhưng phải tốt hơn nữa. Hiện nay đã
anh hùng rồi nhưng làm thế nào giữ và anh hùng lần thứ hai nữa...”. Phát huy
truyền thống anh hùng trong sản xuất, nhân dân Quang Phú đã nỗ lực phấn đấu,
đến năm 1972 Quang Phú lại được phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
như Đại tướng mong đợi.
Năm
1967, sau chiến công bắn rơi máy bay Mỹ ngày 8/3/1967, Bác Hồ gửi 07 huy
hiệu của Người thưởng cho 07 cô gái Cảnh Dương dũng cảm; chị Trương Thị
Gấm - nữ dân quân trực chiến xã Cảnh Dương, đại diện cho cán bộ chiến sỹ
dân quân xã Cảnh Dương (cầm theo 1 mảnh xác máy bay) ra Thủ đô Hà Nội báo
công với Đại tướng. Đại tướng khen ngợi, biểu dương tinh thần chiến đấu
quả cảm của đội dân quân xã Cảnh Dương, cũng như tinh thần chiến đấu
của quân và dân Quảng Trạch góp phần đánh thắng đế quốc Mỹ leo thang
ném bom phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (1965 - 1968).
Năm
1973, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp có chuyến đi khảo sát đường Trường Sơn. Khởi đầu từ đường 9 theo đường 24
ra đường 20 - Quyết Thắng dọc theo các trọng điểm: dốc Chà Là, đèo Phu La
Nhích, ngầm Ta Lê, cua chữ A, dốc 68... nhân chuyến đi này, Đại tướng
đã đến thăm, gặp gỡ và động viên anh chị em công nhân Đội vận tải Sông Gianh
tại xã Quảng Thuận đã có nhiều đóng góp quan trọng làm nên thắng lợi
của Chiến dịch Hòn La (5/1972 - 01/1973). Đại tướng hỏi thăm, động
viên, căn dặn anh chị em công nhân ra sức thi đua, thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ quan trọng, đảm bảo thông tuyến, góp phần cùng cả nước
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Thực hiện lời căn dặn của Đại tướng,
quân và dân Quảng Trạch nêu cao khẩu hiệu “mỗi người dân là một chiến
sỹ trên mặt trận giao thông”, “mặt đường, mặt nước là chiến trường,
tàu thuyền, phà xe là vũ khí”không quản ngày đêm lao động, khẩn
trương thông xe, thông phà, thông tuyến, đảm bảo huyết mạch giao thông,
vận chuyển chi viện cho chiến trường Miền Nam.
Vào
những năm 1980, khi đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống nhân
dân còn nhiều khó khăn. Những lần về thăm quê, Đại tướng luôn dành nhiều thời
gian để thăm những điển hình làm ăn tốt ở Quảng Bình và động viên mọi người học
hỏi làm theo.
Tháng
3 năm 1985, Đại tướng về thăm, làm việc với huyện Quảng Trạch, đi thăm
xã Cảnh Dương, Đại tướng đã ân cần thăm hỏi mọi mặt, từ tình hình
chính trị, kinh tế đến đời sống xã hội và lưu tâm một số mặt chưa
làm được của huyện nhà, đồng thời dặn dò một số vấn đề quan trọng
trong công tác xây dựng và củng cố tổ chức Đảng, chăm lo đời sống cho
nhân dân, tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng
khai thác và phát huy thế mạnh của huyện, quan tâm đầu tư cho lĩnh
vực nông nghiệp. Đại tướng nhắc nhở nên tập trung trồng rừng để phủ
xanh đồi núi, phục vụ đời sống nhân dân;
Trong
lần về thăm quê năm 1990, sau khi đến thăm khối cơ quan Mặt trận, Đoàn
thể của tỉnh, Đại tướng đã dành nhiều
thời gian để đến thăm, làm việc và trò chuyện với cán bộ Hội Nông dân tỉnh
nhà. Đại tướng nói: “Tôi làm quân sự nhưng từng là chuyên gia dân
cày nên rất quan tâm đến nông dân và công tác Hội Nông dân”. Đại tướng căn dặn:
“Quảng Bình trong chiến tranh là tuyến lửa, bị tàn phá nặng nề. Bây giờ hoà
bình rồi, nhưng Quảng Bình lại nằm trong vùng thiên tai khắc nghiệt, cát trắng,
gió Lào, nền nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên, đời sống của bà con vì thế còn
rất khó khăn, nghèo khổ. Hội Nông dân phải nỗ lực hơn nữa để vươn lên xây dựng
Hội vững mạnh, làm tốt chức năng của mình, vận động bà con nông dân làm tốt
thuỷ lợi, thâm canh các loại cây con có hiệu quả kinh tế cao để xoá đói giảm
nghèo, vươn lên làm giàu. Đặc biệt, Hội phải giáo dục nông dân chống cho được
tư tưởng bảo thủ, phải tiếp thu khoa học kỹ thuật, áp dụng vào sản xuất để có
năng suất cao hơn. Làm thế nào để Hội phải là chỗ dựa vững chắc cho bà con nông
dân vươn lên…”
Năm
1992, trong chuyến về thăm quê sau khi tỉnh Quảng Bình trở về địa giới cũ, Đại
tướng đã có buổi làm việc và dành cho lãnh đạo tỉnh những lời tâm sự chân tình:
Tỉnh nhà mới lập lại, được Trung ương hết sức giúp đỡ đó là thuận lợi lớn. Muốn
ổn định tình hình trước hết phải chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân, chăm lo gia đình chính sách, gia đình neo đơn; yêu cầu mỗi huyện, mỗi xã
phải kiểm tra lại mức sống của mỗi gia đình để có biện pháp giúp đỡ cần thiết.
Về kinh tế, muốn đi lên thì phải phát triển kinh tế hàng hóa, xây dựng nền nông
nghiệp toàn diện, nếu độc canh, độc nông thì nghèo; nghiên cứu để phát triển
kinh tế vùng gò đồi. Phải tăng cường kinh tế đối ngoại... Đại tướng nhắc tỉnh
nhiều về phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ, chăm lo nguồn lực
để phát triển bền vững, lâu dài. Về công tác xây dựng Đảng, Đại tướng chỉ rõ:
Phải chăm lo công tác tư tưởng, lãnh đạo phải đảm bảo niềm tin cho nhân dân.
Niềm tin bị xói mòn là điều rất không tốt cho lãnh đạo. Cán bộ phải lấy tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà rèn luyện, phấn đấu...
Năm
1998, về thăm quê hương, dù tuổi già sức yếu, nhưng Đại tướng vẫn ra thăm cánh
đồng lúa “thẳng cánh cò bay” của xã Phong Thủy, nói chuyện với bà con nông dân
đang thu hoạch lúa, Đại tướng ân cần căn dặn: Phải luôn nỗ lực lao động sản
xuất để giữ cho được danh hiệu “Gió Đại Phong” như những năm tháng trong chiến
tranh chống Mỹ cứu nước. Tự hào là quê hương giàu truyền thống văn hóa, cách
mạng, cán bộ, nhân dân trong huyện cần đoàn kết, phát huy truyền thống yêu
nước, yêu quê hương của cha ông, để không ngừng vun đắp cho sự lớn mạnh của
huyện nhà.
Ra
thăm dòng sông Kiến Giang - dòng sông với câu hò khoan êm đềm, sâu lắng, đã
từng đi vào giấc ngủ của Đại tướng cũng như bao trẻ thơ, bao thế hệ, Đại tướng
căn dặn lãnh đạo huyện phải có biện pháp để giữ cho dòng sông mãi mãi xanh
trong, mãi mãi trong lành, thơ mộng, chống xói mòn, sạt lở và bảo vệ môi trường
cảnh quan, xanh - sạch - đẹp và có chỗ để nhân dân đứng hai bên bờ cổ vũ cho Lễ
hội bơi thuyền truyền thống của quê hương vào dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh 2-9
hàng năm.
Năm
1999, Đại tướng lại về thăm quê, đi thăm một số đơn vị, địa phương trong
tỉnh, lần này tuy tuổi đã cao nhưng Người vẫn đau đáu lo lắng cho dân,
cho nước, cho quê hương. Đại tướng đã hỏi cặn kẽ tình hình nhân dân vùng cát
hai huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh, đây là vùng khó khăn nhất từ xưa. Sau khi nghe
báo cáo của huyện, Đại tướng đã biểu dương việc tỉnh ta trong mấy năm qua,
đã đầu tư một số dự án phát triển kinh tế - xã hội vùng cát, nhất là xây dựng
các tuyến đường ra biển và cho rằng đó là việc làm sáng tạo, cần phát huy.
Trong chuyến thăm quê lần này, Đại tướng về thăm lại xã Quang Phú. Đại tướng
dành thời gian thăm và nói chuyện với mẹ Nghèng - Người được Nhà nước phong
tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Mẹ Nghèng không biên chế,
không hưởng lương, nhưng có đến 40 năm trồng rừng chắn cát.
Đại
tướng hỏi thăm chuyện làng, chuyện xã, mừng Quang Phú ngày càng đổi mới và
không quên dặn dò: “Bác Hồ nói vì lợi ích mười năm trồng cây. Vì lợi ích trăm
năm trồng người nên chúng ta phải trồng nhiều rừng hơn nữa, phải trồng cây gây
rừng phủ xanh đồi cát. Trồng rừng cho con cháu đời sau hưởng lợi, hiệu quả của
rừng phi lao chắn cát không phải ngày một ngày hai mà mãi mãi”.
Đại
tướng đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực tương lai
của đất nước. Một
chuyện hết sức cảm động là, trong lần về thăm tỉnh ta tháng 8/1999, đúng ngày
sinh nhật Đại tướng. Theo chương trình có nhiều đoàn đại biểu đến mừng thọ, nhưng
được tin Trường THPT Đào Duy Từ kỷ niệm 40 năm thành lập, Đại tướng đã dành gần
trọn buổi sáng 25/8 để đến thăm trường. Khi biết trường có em Trần Đức Long đạt
giải học sinh giỏi quốc tế, Đại tướng đã cho gọi em lên lễ đài chụp chung ảnh
kỷ niệm, tặng hoa, tặng quà...
Năm
2002, về thăm quê, đến nói chuyện với thầy và trò Trường Trung học phổ thông
Chuyên Quảng Bình, Đại tướng ân cần dặn dò thầy và trò nhà trường phải
nhận thức “Tri thức là của cải quý nhất của con người, của dân tộc và của nhân
loại” và “chúc Trường Trung học phổ thông Chuyên Quảng Bình ra sức phấn đấu,
các cô giáo, thầy giáo dạy giỏi, các em học sinh trai gái học giỏi, trở thành
một trường chuyên gương mẫu, đào tạo nhân tài cho tỉnh nhà và cả nước”. Trong
dịp này, Đại tướng về thăm quê hương trước ngày Tết độc lập đúng 10 ngày. Năm
đó, huyện Lệ Thủy quyết định tổ chức lễ hội đua thuyền truyền thống
2/9 sớm hơn so với mọi năm để đón Đại tướng. Hàng ngàn người dân Lệ Thủy
bây giờ vẫn còn nhớ như in hình ảnh Đại tướng đứng trên ca nô chạy dọc sông
Kiến Giang, tay vẫy chào mọi người. Dòng Kiến Giang lúc đó dậy sóng bởi tiếng
hô vang “Hoan hô đại tướng! Hoan hô đại tướng!”.
Những
lần về thăm quê hương, lần nào Đại tướng cũng nhắc nhở bà con họ hàng, con cháu
ở An Xá, Lộc Thủy phải luôn chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, cố gắng lao động sản xuất và học tập để xứng đáng
với truyền thống yêu nước của dòng họ, của quê hương. Đi thăm các vùng quê
trong huyện Lệ Thủy, đến đâu Đại tướng cũng nhắc nhở cán bộ chính quyền phải
quan tâm đến đời sống của nhân dân, biết yêu thương dân, biết khơi dậy sức mạnh
của sự đoàn kết để chung tay, góp sức xây dựng Lệ Thủy ngày càng giàu mạnh. Đại
tướng chân tình nhắc nhở bà con Lệ Thủy - nơi chôn nhau cắt rốn của Người:
Trong mọi hoàn cảnh bà con chúng ta phải luôn luôn cố gắng, không được đầu hàng
trước hoàn cảnh và số phận. Phải biết tự lực cánh sinh, không được chủ quan, ỷ
lại. Dân giàu thì nước mới mạnh, tự thân vận động là chính, ai cũng phải cố
gắng vươn lên trên đôi chân của chính mình.
Trong
chuyến về thăm quê hương lần cuối cùng vào tháng 11 năm 2004, các đồng chí lãnh
đạo tỉnh mãi mãi không quên lời tâm sự của Đại tướng: "Dù ở xa
nhưng trái tim tôi vẫn hướng về quê hương, có khá đầy đủ thông tin về Quảng
Bình. Tỉnh nhà có những việc làm tốt, tôi vui, nhưng cũng buồn khi tỉnh nhà có
những chuyện chưa hay…". Cũng trong chuyến về thăm quê lần này,
khi biết cửa biển Nhật Lệ bị bồi lắng, làm cạn dòng chảy, Đại tướng đã nhắc nhở
lãnh đạo tỉnh nghiên cứu tìm giải pháp khắc phục để ngư dân ra vào cửa biển an
toàn. Đại tướng băn khoăn khi biết có hiện tượng khai thác đá làm ảnh hưởng đến
Di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và đề nghị tỉnh
cần sớm có quy hoạch tổng thể khu vực này.
Đại
tướng đặc biệt quan tâm đến những vấn đề chiến lược lâu dài của tỉnh. Trăn trở
lớn nhất của Đại tướng là Quảng Bình vẫn còn là tỉnh nghèo so với cả nước và
người dân Quảng Bình phần lớn đang còn nghèo. Làm gì để thoát nghèo, vươn lên
hoà vào sự phát triển chung của cả nước là vấn đề luôn được Đại tướng nhắc nhở
trong những chuyến về thăm quê.
Những
kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, Đại tướng đều có thư chúc mừng và những lời căn dặn
chí tình. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2005 -
2010), những lời căn dặn của Đại tướng cũng là những vấn đề mang tính chiến
lược và thiết thực đặt ra cho Đại hội xem xét, quyết định: “Tôi mong Đại hội
lần này hãy nhìn thẳng vào sự thật, nêu cao tinh thần tự phê bình, phê bình,
phát huy dân chủ, bàn bạc để thấy rõ những nguyên nhân, đề ra những chủ trương,
giải pháp đúng đắn, sát thực tiễn, tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong kinh
tế - xã hội và xây dựng Đảng. Tỉnh Quảng Bình đã có truyền thống hết sức vẻ
vang, trong kháng chiến đã được Bác Hồ khen: “Quảng Bình chiến đấu giỏi, sản
xuất cũng giỏi”. Phát huy truyền thống đó, ngày nay chúng ta phải quyết tâm
chiến thắng bằng được nghèo nàn lạc hậu, vươn lên xây dựng cuộc sống mới ngày
càng giàu mạnh, văn minh. Muốn vậy, tôi thấy vấn đề có ý nghĩa quyết định đối
với tỉnh là phải không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong
nhân dân, trước hết là trong cấp uỷ. Phải coi trọng công tác cán bộ, chú trọng
bồi dưỡng đào tạo thế hệ trẻ; sử dụng những cán bộ thực sự có đức, có tài”...
Thực
hiện lời căn dặn của Đại tướng, trong những năm qua, Đảng bộ, quân và dân Quảng
Bình đã nêu cao ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết đồng lòng vượt qua những khó
khăn, thử thách, tập trung huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh phong trào thi đua
yêu nước, quyết tâm đưa sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh nhà ngày một đi
lên, phấn đấu sớm thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo như mong mỏi của Đại tướng.
Dưới
ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh qua các thời kỳ, trên nền tảng vững
chắc của tiến trình đổi mới, nhất là kể từ ngày tái lập tỉnh đến nay, Quảng
Bình đã có nhiều bước tiến vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng cả
trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng Đảng
và xây dựng hệ thống chính trị.
Từ một
nền kinh tế thuần nông, đến nay, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản22,59%,
công nghiệp - xây dựng 28,44% và dịch vụ 48,97%; Tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trên địa bàn tỉnh bình quân 5 năm (2016 - 2020) đạt 6,13%. Thu ngân sách
trên địa bàn duy trì mức tăng trưởng khá, bình quân 17,4% năm. Tổng thu ngân
sách giai đoạn 2016 - 2020 đạt 22.352 tỷ đồng. Từ một địa phương thường xuyên phải
đối phó với thiếu đói lúc giáp hạt, nay không những đã cân đối được nhu cầu
tiêu dùng mà còn có khả năng sản xuất lương thực hàng hoá.
Công
nghiệp đã có bước phát triển, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô lớn được
hình thành. Một số sản phẩm công nghiệp đã khẳng định được thương hiệu và từng
bước có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật
của tỉnh được đầu tư ngày càng đồng bộ, hiện đại. Từ một tỉnh có cơ sở hạ tầng
yếu kém, đến nay Quảng Bình đã có sân bay, cảng biển, đường sắt, đường bộ, hệ
thống thuỷ lợi; các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu quốc tế
đã và đang phát huy hiệu quả, thu hút nhiều dự án đầu tư. Môi trường thu hút
đầu tư ngày càng thông thoáng, hấp dẫn, đã khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực
xã hội cho đầu tư phát triển; các vùng kinh tế động lực được hình thành ngày
càng rõ nét. Có thể nói, đó thực sự là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
Du
lịch từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng 2 lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, với vương quốc
hang động độc đáo, kỳ vĩ, làm say đắm lòng người, đã và đang trở thành điểm đến
hấp dẫn của du khách trong nước và quốc tế. Tổng số khách du lịch đến tỉnh giai
đoạn 2016 - 2020 đạt 19,7 triệu lượt khách; doanh thu tăng bình quân 9 - 10%
năm.
Trên
cơ sở đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình luôn chăm lo
phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội. Chính vì vậy, các lĩnh vực giáo dục -
đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, khoa học công nghệ, văn hóa, văn nghệ, báo
chí, phát thanh - truyền hình, thể dục, thể thao… ngày càng phát triển. Lần đầu
tiên Quảng Bình có em học sinh Nguyễn Thế Quỳnh đoạt hai huy chương vàng
Olympic Vật lý quốc tế; có vận động viên trở thành vận động viên thể thao
nam đầu tiên của nước ta đạt đẳng cấp quốc tế.
Công
tác chăm sóc, hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm, phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa được
đặc biệt quan tâm, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh không
ngừng được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm bình quân 2,1%/năm. Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo quyết
liệt. Đến cuối năm 2020, toàn tỉnh có 81/128 xã đạt nông thôn mới, đạt 61,72%,
trong đó 12 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 03 xã đạt chuẩn nông thôn
mới kiểu mẫu. Bộ mặt của tỉnh từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến bản,
làng miền núi, vùng cao đang từng ngày khởi sắc.
Sức
mạnh tổng hợp của tỉnh nhà đã tăng lên nhiều, tạo ra thế và lực mới cho tỉnh ta
tiếp tục đi lên với nhiều triển vọng tốt đẹp. Quốc phòng, an ninh, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững. Năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản
lý điều hành của bộ máy chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong Mặt trận Tổ
quốc và cả hệ thống chính trị ngày được nâng cao. Việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ
thị số 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” ngày càng đi vào chiều sâu. Bộ máy hành chính từng bước
được đổi mới theo hướng tinh gọn, hiện đại, hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu
quả. Tinh thần đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng bộ và nhân dân được củng cố
vững chắc, trở thành động lực quan trọng để đưa Quảng Bình phát triển lên một
tầm cao mới.
Ngôi
nhà gắn bó với Đại tướng từ thuở thiếu thời và là nơi Đại tướng từ giã mái ấm
thân thương để bước chân ra đi làm cách mạng nay đã được đầu tư tôn tạo, trở
thành Khu Lưu niệm, thành nơi thăm viếng, điểm di tích giáo dục truyền thống
cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Với
103 tuổi đời, hơn 70 tuổi Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những cống hiến
to lớn, đặc biệt xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Trong lời điếu Lễ quốc tang của Đại tướng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng nhấn mạnh: “Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đánh giá cao công lao to lớn
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội ta suy tôn
đồng chí là anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Con người, nhân cách và
những cống hiến to lớn của Đồng chí in đậm trong lòng nhân dân, là vị tướng của
nhân dân, mãi mãi lưu danh trong lịch sử dân tộc”.
PL giới thiệu